Phong tục thờ Thành Hoàng Lành cũng giống như phong tục thờ cúng tổ tiên của người Việt. Ở mỗi làng quê nông thôn Việt Nam đều thờ thành hoàng làng, nó mang đậm dấu ấn tâm linh, chỗ dựa tinh thần cộng đồng từ ngàn đời xưa và thể hiện đạo lí uống nước nhớ nguồn.
Nguồn gốc phong tục thờ Thành hoàng làng của người Việt
Thuật ngữ Thành hoàng là một từ Hán Việt: “Thành hoàng có nghĩa là thành hào, hào có nước gọi là trì, không có nước gọi là hoàng. Đắp đất làm “thành”, đào hào làm “hoàng”. Thành hoàng xuất hiện ở Trung Quốc thời cổ đại và đã được thờ như là vị thần bảo hộ cho một thành trì, một phủ, một châu hay một huyện.
Thành hoàng thường được vua ban biển miếu hoặc phong tước. Chính quyền phong kiến Trung Quốc đã lấy việc thờ phụng Thành hoàng làm việc giáo hóa dân chúng.
Phong tục thờ thành hoàng làng có nguồn gốc từ Trung Quốc nhưng vì quy mô và cơ cấu làng cổ Trung Quốc có nhiều điểm khác với làng cổ của Việt Nam, nên tín ngưỡng thờ Thành hoàng của các làng Việt cổ cũng không giống tín ngưỡng thờ Thành hoàng của làng cổ Trung Quốc. Thành hoàng của các làng Việt cổ không chỉ và không phải lúc nào cũng thờ vị thần bảo vệ thành hào của làng, mà chủ yếu thờ những người có công với dân với nước, người có công lập ra làng, người có công truyền dạy một nghề nào đó cho dân làng, hoặc là một ông quan tốt (và một số vị tà thần – nhưng số này không nhiều).
Việc lập bàn thờ Thành hoàng của nhiều làng xã Việt Nam đôi khi là thờ một sức mạnh tự nhiên nào đó (như thần sông, thần núi, thần sấm, thần sét, thần mây, thần mưa). Trong số các vị thần này, nơi nào thờ loại thần gì là tùy thuộc vào đặc điểm cư trú của làng đó. Chẳng hạn, những làng ở hai bên bờ các con sông thường là thờ các vị thủy thần; những làng ở trên sườn núi thường thờ thần núi (sơn thần).
Một số làng thờ những nhân vật lịch sử làm Thành hoàng làng mình là những vị anh hùng dân tộc, có công đánh đuổi giặc ngoại xâm, giành lại nền độc lập cho dân tộc, như các vị: Bà Trưng, Bà Triệu, Lê Hoàn, Dương Đình Nghệ, Lê Văn Thịnh, Tô Hiến Thành, Lý Thường Kiệt, Trần Nhật Duật,..
Một số làng thờ vị có công truyền dạy cho dân làng một nghề thủ công nào đó, như vị tổ nghề gốm Bát Tràng, làng Phù Lãng là Hứa Vĩnh Kiều, vị tổ nghề đúc đồng ở Đại Bái là Nguyễn Công Truyền, ở Quảng Bố là Nguyễn Công Nghệ,..
Một số làng thờ những quan lại phương Bắc đã từng cai trị nước ta làm thành hoàng như: Triệu Đà, Sĩ Nhiếp, Cao Biền, Đào Hoàng,…
Vai trò và ý nghĩa của Thành hoàng với đời sống
Trong tín ngưỡng Thành hoàng, người Việt lấy Kính làm cơ sở cơ bản trong ứng xử với cái Thiêng vì mục đích chung là cầu An, cầu cho mọi việc đều bình yên vô sự, không bị các thế lực Thiêng phá hại. Thành hoàng làng là vị thần bảo hộ, là người cứu dân làng khỏi các khổ nạn do những thế lực Thiêng khác gây ra.
1- Vai trò liên kết cộng đồng:
Phong tục thờ thành hoàng làng hoàng đóng vai trò liên kết cộng đồng người trong một cộng đồng lãnh thổ nông nghiệp hữu hạn, làm nơi quy tụ tâm linh cho cư dân.
Thành hoàng chứng kiến đời sống của dân làng, ban phúc độ trì cho những người trung hiếu, hiền lành, giáng họa trừng phạt những kẻ độc ác vô luân. Có tai biến, người ta thường đến lễ bái cầu xin thần che trở. Có việc oan ức, người ta thường lễ bái cầu xin thần chứng giám chuyển giữ hóa lành, giải oan cho người đó. Mọi người trong cộng đồng luôn tuân thủ theo luật lệ, đạo đức vì họ luôn tâm niệm rằng thần luôn giám sát những hoạt động của từng thành viên trong cộng đồng.
Ngôi đình làng không chỉ là nơi thờ cúng các Thành hoàng làng mà đây còn là nơi tụ họp dân làng khi có việc chung, là chốn vui chơi của cả làng vào các dịp lễ hội.
Nếu như sự thờ cúng gia tiên là nền tảng gắn kết mọi thành viên trong gia đình; thì sự thờ cúng thần Thành hoàng là nền tảng gắn kết mọi thành viên trong cộng đồng làng, xã. Trên cơ sở những nguyện vọng, mong ước của các thành viên trong làng hội tụ ở thần.
2- Duy trì và bảo tồn giá trị văn hóa truyền thống
Thành hoàng làng là một trong những thành tố văn hóa mà người nông dân Việt Nam đã sáng tạo ra qua bao nhiêu thế hệ. Gắn với Thành hoàng là hội làng – một hoạt động văn hóa truyền thống mang đậm bản sắc của từng địa phương.
Mặc dù ngày nay, Thành hoàng không còn thích hợp với xã hội hiện đại nếu vẫn giữ nguyên dạng, nhưng lễ hội làng liên quan đến Thành hoàng đang tái diễn ở nhiều nơi đem lại sự phấn khởi, sinh hoạt văn hóa cho xóm làng. Việc thờ cúng thần Thành hoàng đặc biệt là các nhân thần thể hiện đạo nghĩa uống nước nhớ nguồn của dân tộc ta, phát huy các giá trị đạo đức nhân, lễ, nghĩa,…giúp con người, nhất là thế hệ trẻ không bị hòa tan vào nhịp sống văn hóa hiện đại, gìn giữ, phát huy truyền thống văn hóa, góp phần xây dựng nền văn hóa tiên tiến nhưng vẫn đậm đà bản sắc dân tộc.
3- Là chỗ dựa tinh thần vững chắc:
Thành hoàng đã trở thành một biểu tượng tâm linh, một chỗ dựa tinh thần vững chắc của người dân. Bởi với họ, chỉ có thần mới có thể giúp cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt; giúp cho cuộc sống của họ ngày một thêm ổn định, thịnh vượng, nên làng xã nào không có Thành Hoàng thì làng xã đó bất an.
Phân loại các vị Thành Hoàng
Theo sách Việt Nam phong tục, thì mỗi làng thường thờ một vị Thành hoàng làng, cũng có làng thờ hai, ba thậm chí năm, bảy vị thần Thành hoàng; tuy nhiên, trong đó có một vị làm chủ thần.
Thành hoàng thường được thờ ở đình, miếu hay nghè tuy nhiên đôi khi có nơi thờ Thành hoàng ở chùa theo mô típ “Tiền thần hậu phật”. Với quan điểm “Tam giáo đồng nguyên” (ba đạo giáo một nguồn), nên nhiều vị chân tu đắc đạo vẫn được phong thần như: Đại pháp thiền sư Từ Đạo Hạnh (chùa Thầy – Hà Tây cũ) được phong làm Thánh tổ, tục gọi là đức Thánh Từ; Không Lộ thiền sư (chùa Keo – Thái Bình) được phong làm Thánh tổ, tục gọi là đức Thánh Không Lộ; Huệ Tộ thiền sư (chùa Cổ Tung – Nam Định), được phong làm Dực Bảo Trung Hưng – Linh phù tôn thần, tục gọi là đức Thánh Tu…
Cấp bậc Thành hoàng:
Xét theo công trạng mà các thần đã âm phù giúp nhà vua đánh giặc, giúp dân trừ thiên tai địch họa, bệnh dịch, tai ách và giúp dân lập ấp, mở nghề mà triều đình ra sắc phong cho các thần Thành hoàng thành theo các cấp độ như sau:
Thượng đẳng thần bao gồm các vị thần có công lớn với dân, với nước, được nhà vua sắc phong và lập đền thờ như Trần Hưng Đạo, Hai Bà Trưng, Lý Thường Kiệt, Phạm Ngũ Lão,… và các thiên thần được lưu truyền rộng rãi trong nhân gian về các công trạng của họ giúp dân, giúp nước như Tản Viên Sơn Thần, Thánh Gióng, Liễu Hạnh công chúa, Chử Đồng Tử… Tất cả các vị thần này đều có công trạng hiển hách và được vua sắc phong làm Thượng đẳng thần.
Trung đẳng thần là các vị thần hoặc các quan địa phương có công khai điền lập ấp, có ơn với dân, có khi là các vị thần mà dân làng thờ đã lâu, có tên họ mà không rõ công trạng, hoặc có quan tước mà không rõ tên họ, hoặc những vị thần có chút linh dị, cho tới khi vua cầu đảo, có ứng nghiệm thì triều đình phong làm Trung đẳng thần.
Hạ đẳng thần là những vị thần được dân làng thờ cúng tuy không rõ thần tích, nhưng cũng thuộc bậc chính thần. Triều đình theo dân làng mà sắc phong làm hạ đẳng thần.
Ngoài ba vị phúc thần trên, nhiều làng còn thờ cúng cả những vị thần kỳ dị như: thần ăn mày ở làng Thư Lan – Nam Hà; thần ăn trộm ở làng Lông Khê – Thái Bình; thần gắp phân ở làng Cổ Nhuế – Hà Nội; thần trẻ con, thần Tà Dâm… Theo cách giải thích của dân gian thì những vị thần này ngoài những khả năng khác thường, họ còn được thờ cúng bởi chết vào các giờ thiêng. Lúc đầu do sợ hãi mà dân làng thờ cúng sau lâu dần họ được thờ cúng nhằm giúp dân làng xua đi rủi ro, bảo trợ cho sự tồn tại và phát triển của cộng đồng làng.
Phong tục thờ thành hoàng làng của người Việt thực chất là thờ phúc thần, nó đóng vai trò liên kết cộng đồng trong làng xã và mở rộng ra cả nước, nhằm giáo dục lòng yêu nước, nhân nghĩa, hướng đến những điều tốt đẹp.
>> Có thể bạn quan tâm:
- Phong tục thờ Oản Tài Lộc – Nét đẹp văn hóa dâng lễ cúng bái thiêng liêng
- Cách thờ mẹ Quan Âm Chuẩn tại nhà rước tài lộc